Đó là một nhận định rất vô tư, nhưng bạn cần nhớ nó. Một cuốn sách luôn có cùng phẩm chất với tác giả của nó. Nhóm quy tắc cuối không chỉ dừng lại ở vấn đề nhận thức mà đã chạm tới vấn đề đánh giá, phê bình.
Hãy giả định hai trường hợp khá phổ biến trong tình huống này. Bạn cũng biết rằng bất cứ vật gì được phân chia thành bộ phận đều là một tổng thể phức tạp. Chúng ta học những kinh nghiệm đúc kết trong cuộc sống hằng ngày, kinh nghiệm sẵn có hoặc kinh nghiệm mà các tác phẩm giả tưởng đã tạo ra trong trí tưởng tượng của chúng ta.
Trên thực tế, có cả các thí nghiệm cổ điển và các loại sách cổ điển. Tuy nhiên, chúng ta có thể thu thập kiến thức mà không cần phải có người khác dạy. Điển hình là các tác phẩm của Euclid, trong đó mỗi từ quan trọng ông sử dụng chỉ giới hạn với một nghĩa duy nhất.
Hãy cho rằng tác giả hiểu biết về chủ đề cuốn sách nhiều hơn bạn, nếu không bạn đâu cần mất thời gian đọc sách của người đó. Trong đọc đồng chủ đề, bạn và các vấn đề bạn quan tâm phải được đặt lên hàng đầu, chứ không phải là cuốn sách bạn đang đọc. Việc phân loại và sắp xếp các cuộc tranh luận này cũng như các vấn đề cốt lõi đưa chúng ta đến bước cuối cùng của cách đọc này.
Chúng ta không thể đọc một cuốn tiểu thuyết như đọc một tác phẩm lý luận triết học; không thể đọc một bài thơ trữ tình như thể đó là một công thức toán học vì giữa văn học giả tưởng và tác phẩm mô tả có những điểm khác nhau. Sự ngu dốt thứ nhất là của những người mù chữ, nên không thể đọc được. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là đọc phân tích luôn luôn tích cực.
Khi đọc và nghe, chúng ta phải suy nghĩ, cũng giống như việc phải suy nghĩ trong khi nghiên cứu. Hãy quay lại quy tắc 3 quy tắc yêu cầu chúng ta phải trình bày được những phần chính của cuốn sách theo trình tự và mối liên hệ giữa chúng với nhau. Hình thức các bài viết đều giống nhau: nêu lên các câu hỏi, đưa ra các câu trả lời sai; viện dẫn những lý lẽ để ủng hộ câu trả lời sai; sau đó có một bài viết đáng tin cậy phản lại những lý lẽ đó (thường là một bài từ Kinh Thánh).
Nhưng để biết được sự thật, chúng ta lại phải xem xét câu chuyện đó từ nhiều góc nhìn khác nhau. Nếu mọi từ xuất hiện trong các định nghĩa đều cần phải được định nghĩa thì sẽ không có định nghĩa nào cả. Trong trường hợp độc giả thấy hứng thú với cuốn sách, chứ không phải tác giả, thì anh ta nên xem xét việc đánh giá phê bình một cách nghiêm túc.
Họ có thể dùng phép ẩn dụ như là một chất liệu sáng tác. Một người có thể vừa phản đối vừa đồng ý về vấn đề nào đó. Do bị yếu tố văn hoá chi phối nên chúng ta có xu hướng ủng hộ nhà khoa học hơn là ủng hộ người nguyên thuỷ.
Hoặc khi ai đó mang trong mình tính tàn bạo vô thức, anh ta sẽ thấy thoả mãn khi đọc cuốn tiểu thuyết nào anh ta như được hoá thân vào kẻ thống trị trong đó. Chân lý, giả định, hay các nguyên lý cơ bản đều cần đề làm chứng cớ chứng minh những nhận định khác. Có thể tác giả sẽ giải thích nguồn gốc quan điểm của mình, bàn luận về những từ mình dùng, nhận xét về tác phẩm của các tác giả khác, hoặc tranh luận nhiều vấn đề khác… Nhưng trọng tâm mà tác giả muốn đề cấp đến nằm trong những khẳng định và phủ định lớn, cũng như các lý do tác giả nêu lên để giải thích cho những nhận định đó.
Sự nghịch lý mang tính tò mò luôn xuất hiện trong quá trình đọc đồng chủ đề. Tác giả hoặc người biên soạn cần phải biết độc giả sẽ tìm kiếm loại thông tin gì và trình bày cuốn sách sao cho phù hợp với nhu cầu của họ. Nếu bạn đã đọc sách gốc, bạn sẽ biết cuốn sách hướng dẫn mắc những sai sót gì (nếu có).