Ta chỉ nên sử dụng để xoá bỏ những mâu thuẫn về những điều là sự thật hiển nhiên. Một tập hợp tài liệu cũng có thể chứa trong nó một câu chuyện. Ở thời hiện đại, cũng có những bài phê bình dài tương tự, ví dụ như những bài bình nổi tiếng về tác phẩm Critique of Pure Reason (Bàn về lý trí đơn thuần) của Kant; hoặc như một ấn bản chú giải về một vở kịch của Shakespeare bao gồm một khung dàn ý cụ thể đến từng chi tiết và nhiều thứ khác nữa, dài hơn vở kịch cả chục lần.
Tuy nhiên, hầu hết các tác giả có năng lực đều dự đoán được điều này và luôn đưa ra những chú ý rõ ràng trước khi chuyên môn hoá một từ nào đó. Vì thế, cố gắng tìm ra những phần liên quan cùng lúc với việc xác định sách liên quan thường là việc rất khó. Thuật ngữ chỉ xuất hiện trong quá trình giao tiếp.
Dữ kiện không phải là những quan điểm cá nhân. Đa phần các bài thơ hay đều rất phức tạp và bao hàm trong nó cả ý nghĩa về mặt ngôn ngữ và tư duy. Nói cách khác là học bằng cách thực hành.
Đó là nó không chứa đựng các lý luận (trừ phi đó là những lý luận ngày nay được mọi người cho là đúng hoặc ít nhất là có giá trị lịch sử) và không có thơ phú hay các tác phẩm văn học viễn tưởng mặc dù nó có thể chứa các dữ kiện về thơ phú và các thi sĩ. Khi đó, người ta ít khi bỏ cuộc nhanh như vậy. Độc giả cũng giống như những đứa trẻ ở chỗ các tác giả lớn có thể đóng vai trò người thấy đối với họ, nhưng điều đó không có nghĩa là họ không cần được lắng nghe.
Thứ ba, ngay cả khi các nhân vật có hẳn một bài diễn thuyết, ví dụ như Settembrini nói về sự tiến bộ trong cuốn Magic Moutain (Ngọn núi kỳ diệu) của Thomas Mann, chúng ta cũng không thể chắc rằng đó cũng chính là quan điểm của tác giả. Có nhiều câu trả lời khác nhau về câu hỏi này. Quy tắc thứ hai của việc đọc hiểu ý tác giả đòi hỏi ta phải tìm ra được các câu then chốt trong tác phẩm, từ đó hiểu được hàm ý của tác giả.
Nó có thể đưa ra các nguyên tắc hay yếu tố đặc trưng làm nền tảng cho các quy tắc, khiến chúng dễ hiểu. Nếu bản thân bạn không thể nỗ lực để hiểu chúng thì phương pháp đọc mà chúng tôi đề cập đến không thể thực hiện được, và bạn cũng không thể chuyển từ hiểu ít sang hiểu nhiều hơn. Như Emerson nói về cái đẹp rằng nó là lý do tồn tại của chính nó.
Nếu ta không động chạm gì tới cách thức tác giả trình bày nội dung, ta sẽ không hiểu gì về cả hai mặt này. Cuốn The Charterhouse of Parma (Nhà tế bần ở Parma) của Stendhal cũng viết về cuộc xung đột, các cuộc chiến của Napoleon như trong tiểu thuyết của Tolstoy. Sách toán học thường đòi hỏi sự chính xác, rõ ràng.
Chỉ những diễn thuyết ẩn hoặc không thể phát hiện mới thật sự nguy hiểm. Trên thực tế, quá trình đọc trong và đọc ngoài có xu hướng kết nối với nhau trong quá trình hiểu và phê bình một cuốn sách. Diễn đạt nội dung chính của toàn bộ cuốn sách một cách ngắn gọn nhất.
Các nhà triết học là những người hay sử dụng hệ thống từ vựng riêng biệt. Đó là sự khác biệt giữa biết cái gì và biết cách nào. Lúc này, có một điều rất đáng lưu tâm xảy ra.
Cũng có trường hợp, những từ quan trọng đối với tác giả không gây khó khăn gì cho bạn vì bạn hoàn toàn hiểu chúng. Đây chính là những từ hàm chứa các phân tích, lý luận của tác giả. Như vậy, cuốn sách lý thuyết đó cũng có những kết luận thực tiễn.